Lịch sử Thuốc_nhuộm_màu_chàm

Indigo, Bộ sưu tập thuốc nhuộm lịch sử của Đại học Kỹ thuật Dresden, Đức.

Thuốc nhuộm màu chàm là một trong các loại thuốc nhuộm cổ nhất được sử dụng để nhuộm màu trong công nghiệp dệt vải và in ấn. Vải nhuộm chàm cổ nhất đã biết có nien đại tới 6.000 năm trước, được phát hiện năm 2009 tại Huaca Prieta, Peru.[6] Nhiều quốc gia châu Á, như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản v.v đã sử dụng thuốc nhuộm màu chàm trong nhiều thế kỷ. Thuốc nhuộm này cũng được các nền văn minh cổ đại khác ở Mesopotamia, Ai Cập cổ đại, Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại, Anh tiền sử, Mesoamerica, Peru, Iranchâu Phi biết tới.

Người ta coi Ấn Độ là trung tâm cổ nhất trong ngành thủ công nghiệp nhuộm màu chàm của Cựu thế giới.[7] Loài I. tinctoria cũng được thuần hóa tại Ấn Độ.[7] Đây cũng là nơi cung cấp đầu tiên thuốc nhuộm màu chàm cho châu Âu vào thời đại Hy-La, nơi nó được coi là một sản phẩm xa xỉ.[7] Sự gắn liền của màu chàm với Ấn Độ được phản ánh trong các từ trong tiếng Hy Lạp để chỉ loại thuốc nhuộm và vùng đất này, đó là indikón (Ἰνδικόν) và Ἰνδία (India tức Ấn Độ).[8] Người La Mã Latinh hóa nó thành từ indicum, nó được chuyển qua và thể hiện trong tiếng Italia và cuối cùng là trong tiếng Anh với từ indigo.

Tại vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia), tấm bảng ghi bằng chữ hình nêm kiểu tân-Babilon trong thế kỷ 7 TCN có đưa ra công thức để nhuộm màu len, trong đó len màu xanh lưu ly (uqnatu) được sản xuất bằng cách ngâm trong nước chàm và đưa quần áo ra ngoài không khí lặp đi lặp lại vài lần.[8] Bột chàm có lẽ đã được nhập khẩu từ Ấn Độ.

Người La Mã sử dụng thuốc màu chàm làm chất nhuộm màu cho thuốc màu và cho các mục đích y tế, mỹ phẩm. Đây là một xa xỉ phẩm do các thương nhân Ả Rập nhập khẩu từ Ấn Độ vào vùng ven Địa Trung Hải.

Thuốc nhuộm màu chàm vẫn còn là mặt hàng khan hiếm tại châu Âu trong suốt thời kỳ Trung cổ. Thuốc nhuộm từ tùng lam (Isatis tinctoria), với thành phần hóa học đồng nhất, đã được sử dụng để thay cho thuốc nhuộm màu chàm.

Vào cuối thế kỷ 15, nhà thám hiểm người Bồ Đào NhaVasco da Gama đã phát hiện ra hành trình đi biển để tới Ấn Độ. Điều này đã dẫn tới việc thiết lập quan hệ thương mại trực tiếp của người châu Âu với Ấn Độ, quần đảo Gia vị, Trung Quốc, Nhật Bản. Các nhà nhập khẩu đã có thể tránh các khoản thuế nặng nề do các trung gian người Ba Tư, Levant và Hy Lạp đặt ra cũng như độ dài của các hành trình đường bộ đầy nguy hiểm đã từng được sử dụng trước đây. Kết quả là việc nhập khẩu và sử dụng thuốc nhuộm màu chàm tại châu Âu cũng gia tăng đáng kể. Phần lớn thuộc nhuộm màu chàm dùng tại châu Âu đến từ châu Á thông qua các hải cảng tại Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh. Tây Ban Nha nhập khẩu thuốc nhuộm này từ các thuộc địa của mình ở Nam Mỹ. Nhiều đồn điền trồng chàm được các quốc gia châu Âu hùng mạnh thiết lập tại các vùng nhiệt đới; với sản lượng lớn tại JamaicaNam Carolina, trong đó sức lao động chủ yếu là của các nô lệ da đen châu Phi hay châu Mỹ gốc Phi.[9] Các đồn điền chàm cũng phát triển tại quần đảo Virgin. Tuy nhiên, PhápĐức đã đặt việc nhập khẩu thuốc màu chàm ra ngoài vòng pháp luật vào thế kỷ 16 để bảo hộ cho công nghiệp sản xuất thuốc màu từ tùng lam của cư dân bản xứ.

Một người Tuareg đội mũ che mặt nhuộm chàm.

Màu chàm là nền tảng trong nhiều thế kỷ cho các truyền thống dệt may ở Tây Phi. Từ những người dân du cư Tuareg ở sa mạc Sahara tới Cameroon, quần áo nhuộm chàm là biểu hiện của sự giàu có. Phụ nữ nhuộm chàm quần áo ở phần lớn các khu vực, với người YorubaNigeria và người Manding ở Mali là những người rất thành thạo trong công việc của họ. Những thợ nhuộm Hausa là nam giới làm việc tại các hố nhuộm chàm của cộng đồng đã từng là nền tảng của sự giàu có của thành phố cổ Kano, và ngày nay người ta vẫn có thể nhìn thấy họ miệt mài làm công việc của mình tại các hố nhuộm đó.[7]

Tại Nhật Bản, bột chàm là đặc biệt quan trọng trong thời kỳ Edo khi nước này bị cấm nhập khẩu lụa và người Nhật bắt đầu nhập khẩu và trồng bông.[10][11] Rất khó để nhuộm màu cho sợi bông, ngoại trừ dùng bột chàm.[12] Thậm chí ngày nay, màu chàm vẫn là thích hợp cho kimono mùa hè Yukata, do y phục truyền thống này gợi nhớ lại thiên nhiên và biển xanh.

Trong thế kỷ 19, người Anh mua phần lớn thuốc nhuộm màu chàm từ Ấn Độ. Với sự ra đời của chất thay thế theo phương pháp tổng hợp thì nhu cầu về thuốc nhuộm màu chàm tự nhiên đã giảm xuống và các trang trại trồng chàm không còn đem lại lợi nhuận nữa.

Trong văn chương, vở kịch Nildarpan của Dinabandhu Mitra (1830-1873) được viết dựa trên cuộc sống của các nô lệ và cảnh lao động cưỡng bức của họ trong việc trồng chàm ở Ấn Độ khi đó. Nó đóng một vai trò quan trọng trong cuộc nổi dậy của người Bengal năm 1858 gọi là Nilbidraha.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thuốc_nhuộm_màu_chàm http://chemapps.stolaf.edu/jmol/jmol.php?model=c1c... http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k90697p/f512.... http://www.cfsan.fda.gov/~lrd/cfr74102.html http://pubchem.ncbi.nlm.nih.gov/summary/summary.cg... http://pubchem.ncbi.nlm.nih.gov/summary/summary.cg... //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/27652337 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5023320 http://www.commonchemistry.org/ChemicalDetail.aspx... //doi.org/10.1021%2Fed068pA242 //doi.org/10.1038%2Fd41586-018-00103-8